LUẬT HÌNH SỰ HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ
Như đã biết, hệ thống chính trị của Mỹ là liên bang. Các chính phủ tiểu bang và liên bang là những thực thể độc lập nhưng có liên quan với nhau. Mỗi bang có hệ thống pháp luật riêng. Về cơ bản có 51 bộ luật hình sự, mỗi bộ cho 50 bang và một bộ cho liên bang. Tài liệu này sẽ cố gắng cung cấp một cái nhìn chung, nhưng bạn nên nhận ra rằng có thể có sự khác biệt đáng kể về quy định pháp lý giữa các bang.
Xin phép được bắt đầu bằng cách mô tả bản chất của luật và những gì đặc biệt của luật hình sự, để phân biệt nó với pháp luật dân sự. Sau đó, xin đề cập đến căn cứ buộc tội và hình phạt, mà là cơ sở của luật hình sự. Phần tiếp theo mô tả các nguyên tắc về lỗi, căn cứ chính của nhiều bộ luật hình sự.
Sau đó, tài liệu này mô tả cấu trúc của tội phạm hình sự, nghĩa là trách nhiệm hình sự được thiết lập như thế nào. Tài liệu kết thúc bằng việc xem xét việc tuyên án. Chúng tôi cũng sẽ cố gắng nói về sự khác biệt của luật hình sự. Tuy vậy, luật hình sự của Hoa Kỳ rất giống với luật hình sự của các nước phát triển và hậu công nghiệp khác.
Điều gì khác biệt của luật nói chung và luật hình sự nói riêng? Trong phần này, trước tiên, xin đưa ra một bức tranh đơn giản về luật là gì. Sau đó, chuyển sang những gì khác biệt của luật hình sự nói riêng. Thật khó để mô tả những gì là khác biệt của luật hình sự, mà không nói đến những gì là khác biệt trong luật với tư cách là một công cụ điều chỉnh và sắp xếp cuộc sống của chúng ta.
Hãy xem chúng ta là loại sinh vật nào. Như Aristotle đã quan sát hàng thiên niên kỷ trước, chúng ta là những sinh vật xã hội, kiến và tinh tinh cũng vậy. Điều khác biệt ở chúng ta, những con người, là chúng ta là những sinh vật duy nhất trên trái đất có ngôn ngữ và có thể hành động một cách có lý do.
Chúng ta có bản chất sinh học giống như các loài động vật khác trên trái đất, và những điều này có lẽ đã đặt ra giới hạn cho chúng ta. Nhưng chúng ta là những sinh vật duy nhất tự giác, và có chủ ý, tạo ra các hệ thống quy tắc và thể chế để sắp xếp cuộc sống của mình bằng cách đưa ra lý do để hành xử theo cách này hay cách khác. Có sự đa dạng lớn giữa loài người. Luật điều chỉnh cuộc sống của loài người như thế nào. Những nhu cầu phải có các quy định chính thức và không chính thức để điều chỉnh con người là mang tính phổ quát, để làm cho con người trở nên thành công nhất có thể.
Xin hãy thứ lỗi vì đã sử dụng một ví dụ đơn giản và khá thô thiển bằng ngôn ngữ thông thường. Giả sử khi đang tham gia một cuộc tụ tập xã hội nào đó, bạn bị cổ họng và thực sự muốn nhổ nước bọt, có thể bạn sẽ không làm vậy, nhưng tại sao lại không? Rốt cuộc, bạn sẽ cảm thấy rất thoải mái nếu bạn làm như vậy.
Bạn sẽ không làm vì có những quy tắc về phép xã giao và chuẩn mực xã hội, không chấp nhận hành vi thô lỗ, thô tục có chủ ý. Bạn có thể bị chế giễu, bị chỉ trích hoặc bị xã hội loại trừ. Bạn sẽ không nhổ nước bọt vì bạn đồng ý với các quy tắc đó, đã biến nó thành quy tắc của riêng mình, hoặc vì bạn sợ hậu quả khi vi phạm quy tắc đó, hoặc cả hai. Phong tục và đạo đức là những bộ quy tắc tương tự nhau để điều chỉnh cuộc sống của chúng ta.
Tất cả các hệ thống quy tắc này đều có cơ chế thực thi riêng, từ việc loại trừ xã hội đến việc chỉ trích và lên án. Luật pháp là một sự can thiệp khác để điều chỉnh cuộc sống giữa các cá nhân của chúng ta nói chung, và để kiềm chế xung đột nói riêng. Tuy nhiên, điều đặc biệt của luật là do nhà nước tạo ra và thực thi, bao gồm cả sự độc quyền về hiệu lực pháp luật, ngay cả khi tranh chấp pháp lý giữa hai bên tư nhân.
1:-
Nếu các bên không thể giải quyết bất đồng của mình một cách riêng tư, họ sẽ nhờ đến pháp luật để phân xử xung đột và thực thi kết quả nếu cần. Vâng, tất cả chúng ta đang hành động dưới bóng dáng của luật pháp, điều này cho chúng ta lý do để hành xử theo cách này hay cách khác. Không có bản năng tự thân nào dẫn dắt việc phải tuân thủ các quy tắc và thực tế chúng ta thường vi phạm chúng. Nhưng các quy tắc luôn cung cấp cho chúng ta những lý do rõ ràng hoặc ngầm định để hành động ngay cả khi chúng ta tuân theo chúng một cách không suy nghĩ.
Với sự hiểu biết đơn giản như vậy về luật hình sự, chúng ta hãy chuyển sang những điều khác biệt về luật hình sự. Hãy bắt đầu với một ví dụ đơn giản, nhưng thực tế, không dành cho những người yếu tim. Hãy tưởng tượng một người đàn ông 21 tuổi hiếu chiến thích lái xe với tốc độ rất cao trên đường cao tốc, hành vi nguy hiểm đe dọa anh ta. Một ngày anh ý lái xe với tốc độ 75 dặm một giờ vào giữa trưa trên đường không giải phân cách ở vùng bán đô thị. Con đường chỉ có môt làn, bị giới hạn tốc độ 45 dặm một giờ, có đèn giao thông . Anh ta thấy đèn giao thông phía trước sắp chuyển sang màu đỏ. Mặc dù không say, nồng độ cồn trong máu của anh ta chỉ vượt quá giới hạn cho phép. Thay vì chạy chậm và dừng lại, anh ta quyết định vượt đèn đỏ cho vui với tốc độ lên đến hơn 90 dặm một giờ . Chao ôi!
Đèn chuyển sang màu đỏ khi anh ta đến ngã tư. Có một phương tiện đang di chuyển qua một cách đúng luật đang đi vào ngã tư . Tài xế của chúng ta đâm vào một chiếc xe đó, giết chết người lái xe và làm cho hành khách bị liệt, người bị liệt tứ chi không thể hồi phục. Các bằng chứng vật chất và nhân chứng bằng mắt thường không nghi ngờ gì về hành vi đặc biệt nguy hiểm của người lái xe. Kiểm tra hơi thở cho thấy rằng nồng độ cồn trong máu của anh ta vượt quá giới hạn luật định.
Làm thế nào để luật nhà nước điều chỉnh một thảm kịch đáng buồn không cần thiết như vậy? Trước tiên, gia đình nạn nhân có thể kiện người lái xe về những thiệt hại dân sự để đòi bồi thường thiệt hại do hành vi cẩu thả của anh ta gây ra. Đây là đối tượng của luật hành chính và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Các quy định pháp lý điều chỉnh một số loại thiệt hại dân sự bao gồm thương tích cá nhân. Bài viết này này sẽ giới thiệu về luật hình sự, gồm cả mô-đun về sơ đồ. Tất nhiên, tiền bạc không bao giờ có thể thay thế mạng sống con người hay sửa chữa được tật nguyền không hồi phục được.
Nhưng quan điểm của thiệt hại dân sự là cố gắng làm cho các nạn nhân càng trở lại tình trạng ban đầu càng tốt, giới hạn trách nhiệm về tiền bạc như một biện pháp khắc phục là không thể tránh khỏi. Nhưng hành vi của người lái xe còn thể hiện sự thờ ơ về mặt đạo đức đối với quyền và lợi ích của người khác. Đó là một sự vi phạm kép về nghĩa vụ mà nghĩa vụ này con người phải thực hiện để tránh những tổn hại không đáng có.
Việc buộc tài xế bồi thường thiệt hại về tiền bạc dường như là một phản ứng chưa đủ. Hành vi của anh ta dường như đòi hỏi phải có sự phản ứng của công chúng thay mặt xã hội buộc tội và trừng phạt. Đây là đối tượng của luật hình sự.
Tội phạm khác với vi phạm dân sự vì tội phạm là hành vi xâm phạm đạo đức đối với tất cả các thành viên trong xã hội và bị truy tố bởi nhà nước chứ không phải bởi các bên tư nhân. Phản ánh về sự khác biệt này chính là các tiêu đề vụ án, không phải là Smith kiện Jones. Thay vào đó chúng có tiêu đề như: Nhân dân buộc tội Jones, hoặc Nhà nước buộc tội Jones, hoặc Hoa Kỳ buộc tội Jones như trong các vụ án hình sự liên bang.
2/-
Tội phạm hoặc hành vi vi phạm chống lại chúng ta, người dân nói chung, cũng như các cá nhân nói riêng. Luật hình sự và luật hành chính và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đều điều chỉnh cuộc sống của chúng ta. Chúng có chung một số mục tiêu. Mỗi hành vi vi phạm đều liên quan đến mức độ đổ lỗi và đều bao gồm các biện pháp trừng phạt. Nhưng chỉ có luật hình sự về cơ bản dựa trên các giá trị đạo đức mà con người phải thực hiện đối với nhau, và sau đó áp đặt trách nhiệm và trừng phạt của Nhà nước đối với việc không thực hiện các nghĩa vụ kép đó.
Buộc tội và trừng phạt là sự áp đặt quyền lực Nhà nước nghiêm khắc nhất, bởi vì chúng gây ra hậu quả đau đớn mà người phạm tội đáng phải chịu điều đó. Vì trách nhiệm hình sự và hình phạt là những biện pháp xử lý hành vi nghiêm trọng như vậy, nên có một mức độ khác nhau của nghĩa vụ chứng minh trong luật dân sự và hình sự. Trong luật dân sự, bên khởi kiện phải chứng minh thương tích bằng một tiêu chuẩn được gọi là chứng cứ vượt trội hơn, được hiểu là có nhiều khả năng hơn là không.
Nói cách khác, nếu bằng chứng có lợi cho nguyên đơn, tức là bên đòi bồi thường, thì nguyên đơn thắng và bị đơn phải bồi thường thiệt hại. Ngược lại, trong luật hình sự, nhà nước phải chứng minh rằng hành vi của bị cáo là tội phạm, chứ không phải một nghi ngờ hợp lý.. Mức độ chắc chắn về chứng cứ được áp dụng trong hầu hết các vụ án.
Nhưng trước khi nhà nước có thể buộc tội và trừng phạt, nhà nước phải chứng minh với mức độ chắc chắn rất cao rằng hành vi của bị cáo là tội phạm. Chúng ta đặt ra mức độ cao như vậy cho việc truy tố vì hậu quả việc áp dụng hình phạt là rất nghiêm trọng đối với bị cáo. Chúng ta ủng hộ lỗi tha bổng người có tội so với lỗi kết án người vô tội.
Do đó, các mức độ khác nhau của nghĩa vụ chứng minh phản ánh mức độ nguy hiểm trong việc truy tố hình sự hơn là trong một vụ kiện dân sự. Bây giờ chúng ta hãy rút ra một sự phân biệt quan trọng giữa hai cách mô tả đặc điểm của luật hình sự. Đầu tiên là thủ tục. Những quy định và thông lệ này hướng dẫn việc điều tra và xét xử tội phạm hình sự. Những quy định như quyền giữ im lặng và quyền được cung cấp luật sư là quen thuộc đối với hầu hết mọi người. Chúng cực kỳ quan trọng và giúp bảo vệ công dân khỏi những can thiệp phi lý của nhà nước vào cuộc sống của họ.
Trong thời gian còn lại, chúng ta sẽ nói về những gì được gọi là luật hình sự nội dung. Những quy định xác định hành vi nào là tội phạm và đáng bị nhà nước buộc tội và trừng phạt. Các quy định này được hệ thống hóa bởi các cơ quan lập pháp tiểu bang và liên bang, sau đó được giải thích và áp dụng bởi các tòa án.
Tại Hoa Kỳ, Anh, Canada và các quốc gia khác ban đầu chịu ảnh hưởng của luật Anh, chúng ta có hệ thống pháp luật thông luật. Giải thích tư pháp trong thông luật quan trọng hơn nhiều đối với sự phát triển của luật trong hệ thống pháp luật lục địa. Quy trình của hệ thống thông luật mang tính chất đối nghịch hơn đáng kể. Tuy nhiên, bất chấp những khác biệt về thủ tục này, các định nghĩa về tội phạm và hình phạt trong thông luật và các bộ luật hình sự lục địa, về tổng thể, rất giống nhau.
Hầu hết các vụ án hình sự ở Hoa Kỳ được giải quyết bằng các thỏa thuận nhận tội, được gọi là giao kèo nhận tội, theo đó bị cáo đồng ý nhận tội, do đó tiết kiệm cho chính phủ thời gian, rắc rối và chi phí xét xử. Đổi lại, bên công tố thường đồng ý với mức phí nhẹ hơn hoặc đề nghị mức án ít nghiêm khắc hơn mức bị cáo có thể bị kết án tại phiên tòa. Hầu như tất cả các thẩm phán thường chấp nhận các khuyến nghị như vậy của cơ quan công tố.
Trong hệ thống của thông luật, khoảng 98% các vụ án hình sự liên bang và khoảng 94% các vụ án cấp tiểu bang, được giải quyết theo cách này, và do đó, các vụ xét xử là rất hiếm so với các quốc gia khác. Tại Hoa Kỳ, các quy định của luật hình sự nội dung chỉ đơn giản là bối cảnh trong bóng tối của cuộc thương lượng giữa bên công tố và bên bào chữa.
Bây giờ, hãy nói về căn cứ buội tội và trừng phạt của nhà nước. Như đã nói, đối tượng đặc biệt của luật hình sự là sự buộc tội của nhà nước, sự kỳ thị và trừng phạt đối với những người xâm phạm. Việc gây ra như vậy là có chủ đích. Do đó, đặt ra câu hỏi ngay lập tức là làm thế nào nhà nước có thể giải thích cho sự đối xử khắc nghiệt như vậy. Bởi vì xét cho cùng, việc cố ý gây đau đớn về mặt đạo đức đòi hỏi sự giải thích cho bất cứ điều hành vi vi phạm gì đã xảy ra.
3/-
Những mục tiêu nào giải tích cho hành động của nhà nước? Câu trả lời cơ bản nhất là, luật hình sự nhằm thực thi công lý bằng cách trao cho những người phạm tội những gì họ đáng được hưởng. Nhà nước tìm cách kiểm soát tội phạm theo hai cách: răn đe những người có thể phạm tội, và bỏ tù những tội phạm nguy hiểm.
Chúng ta hãy xem xét cả hai mục tiêu này: trao cho tội phạm những gì họ xứng đáng phải nhận và kiểm soát tội phạm chặt chẽ hơn. Thuật ngữ chuyên môn để giải thích cho việc phạm tội và hình phạt là trừng phạt (quả báo). Trừng phạt (quả báo) là một lý thuyết về công lý nhằm mục đích mang lại cho mọi người những gì xứng đáng họ được nhận.
Không nên nhầm lẫn với sự trả thù, đó là mong muốn tâm lý phổ biến khi người ta bị oan nhưng đó không phải là sự giải thích cho sự trừng phạt. Theo lý thuyết công bằng được ghi lại, bản thân nó chỉ đơn giản là mang lại cho mọi người những gì họ xứng đáng được hưởng. Do đó, trừng phạt (quả báo) không khác gì các lý thuyết tương tự về công lý trong luật tài sản, trong đó mọi người được cho là xứng đáng được đền bù công bằng cho thành quả lao động của họ. Hoặc trong các hợp đồng, trong đó mọi người xứng đáng được bồi thường nếu người khác phá vỡ lời hứa của mình. Nói chung, ở Hoa Kỳ, không ai bị đổ lỗi và trừng phạt hình sự trừ khi họ đáng bị như vậy. Sẽ là không công bằng và không hợp lý nếu kết tội những người được biết là vô tội, ngay cả khi làm như vậy tăng cường kiểm soát tội phạm.
4/-
Chúng tôi cũng tin rằng mọi người không nên bị trừng phạt nhiều hơn những gì họ đáng phải chịu. Vì vậy, Trừng phạt (quả báo) là một điều kiện cần thiết trước khi nhà nước có thể buộc tội và áp dụng hình phạt. Nó đặt ra một giới hạn mà hình phạt sẽ là bất công.
Các câu hỏi được đặt ra bởi sự giải thích về quả báo này là, khi nào con người đáng bị buộc tội và trừng phạt hơn là một số biện pháp xử lý khác. Mức độ đáng bị buộc tội và hình phạt đối với các loại hành vi phạm tội cụ thể. Kiểm soát tội phạm là lời giải thích khác cho mục đích trực tiếp tạo ra kết quả tốt là làm giảm tội phạm một cách hiệu quả về chi phí. Mặc dù tội phạm có thể được kiểm soát bằng nhiều cách khác nữa , nhưng việc áp đặt hình phạt trong luật hình sự như vậy có thể đặc biệt hiệu quả vì việc áp đặt hình sự gây tổn hại hơn nhiều.
Mục tiêu không phải là để ngăn chặn tất cả tội phạm. Một hệ thống tưởng tượng như vậy sẽ quá khắc nghiệt và xâm phạm quyền tự do. Trên hết, câu hỏi đặt ra là, luật hình sự là phương tiện thích hợp nhất để kiểm soát hành vi phù hợp với các giá trị khác mà chúng ta tán thành, chẳng hạn như quyền tự do, quyền theo đuổi các dự án của mình mà không bị nhà nước xâm phạm hoặc can thiệp và quyền không bị đổ lỗi hoặc bị trừng phạt trừ khi họ thực sự đáng bị như vậy. Mặc dù mục tiêu truy bắt tội phạm và mục tiêu kiểm soát tội phạm có thể bổ sung cho nhau, nhưng đôi khi chúng có thể mâu thuẫn với nhau.
Ví dụ, chúng ta có thể tin rằng sự bất ổn tâm thần của một bị cáo phạm tội khiến bị cáo được giảm nhẹ hình phạt hơn vì nó làm cản trở khả năng sử dụng lý trí của anh ta. Như vậy có lẽ, bị cáo xứng đáng được hưởng mức án nhẹ hơn phần nào so với các bị cáo khác cùng tội. Mặt khác, sự bất ổn tương tự, trong một số trường hợp, cũng có thể khiến bị cáo trở nên đặc biệt nguy hiểm, và do đó, một bị cáo có thể bị hình phạt nặng hơn so với bình thường
Cân bằng các mục tiêu như vậy có thể là một nhiệm vụ khó khăn, như chúng ta sẽ thấy khi thảo luận về việc tuyên án sau này. Các bài tiếp theo sẽ chuyển sang các nguyên tắc hướng dẫn các định nghĩa về tội phạm.