LUẬT HÌNH SỰ HOA KỲ (BÀI 2)
Với mục đích của luật hình sự mà chúng ta đã thảo luận ở tài liệu trước về trừng phạt và kiểm soát tội phạm, trong tài liệu này, chúng ta tìm hiểu về khái niệm hành vi phạm tội. Người ta thường nói rằng toàn bộ nội dung của luật hình sự có thể được mô tả bằng hai nguyên tắc. Nguyên tắc hành vi xâm hại và Nguyên tắc có lỗi.
Nguyên tắc hành vi xâm hại quy định những hành vi gây tác hại đáng kể hoặc nguy cơ gây tổn hại đáng kể . Một số hành vi xâm hại, chẳng hạn như sử dụng vũ lực, trộm cắp và gian lận là những hành vi cốt lõi trong luật hình sự. Giết người, hãm hiếp, đốt phá và ăn cắp tài sản của người khác là những hành vi xâm hại đáng kể cho người khác.
Tuy nhiên, trong thế kỷ trước, và ngày càng phổ biến trong những thập kỷ gần đây, Luật hình sự còn điều chỉnh cả những hành vi có sự xâm hại không rõ ràng. Ví dụ, bạn có nghĩ rằng một người nên bị kết án và bị tù, vì đã tự cho mình là anh hùng chiến tranh và đeo huy chương không phải của mình? Đó là hành vi vô cảm, vô đạo đức và có chủ đích, nhưng liệu nó có nên được quy định trong Luật hình sự và có khả năng bị phạt tù không? Nghị viện cho rằng có và đã thông qua đạo luật lòng dũng cảm bị đánh cắp năm 2013. Sau đó, Tổng thống đã ký thành luật. Mại dâm có nên coi là một tội ác? Hay nó nên được xử lý bằng các biện pháp y tế công cộng và các hình thức khác không thuộc quy định hình sự?. Việc hình sự hóa rộng rãi các hành vi như vậy gây tranh cãi gay gắt. Vì không rõ quy định của pháp luật hình sự là phù hợp và cần thiết về mặt đạo đức hay không. Và việc sử dụng luật hình sự một cách không phù hợp và không cần thiết có xu hướng làm suy yếu thông điệp đạo đức mà luật hình sự muốn truyền tải.
Luật hình sự còn mở rộng để xử lý các hành vi xây dựng thương hiệu cho các loại thuốc gây nghiện. Có một cuộc tranh luận gay gắt về việc liệu có khôn ngoan và hiệu quả về chi phí, nếu sử dụng luật hình sự như là công cụ chính để ngăn chặn việc sử dụng ma túy. Nói một cách tổng thể hơn, luật hình sự với tư cách là một công cụ quản lý, đã hình sự hóa quá rộng rãi các hành vi. Điều này không phù hợp với nguyên tắc có hành vi xâm hại.
Ngoài ra, trong trật tự pháp lý của Mỹ, Hiến pháp hầu như không có giới hạn nào về khả năng hình sự hóa của cơ quan thực thi pháp luật. Có nghĩa là, các bang và chính phủ liên bang về cơ bản không bị hạn chế hình sự hóa đối với loại hành vi trong phạm vi quyền hạn của họ. Trở lại ví dụ về luật hành động dũng cảm bị đánh cắp, Tòa án Tối cao đã phát hiện ra một phiên bản trước đó của nó là đạo luật cấm nói dối về các anh hùng quân đội, mà đạo luật này là vi hiến vì nó vi phạm việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận của Tu chính án thứ nhất. Ví dụ bất thường khác, là một trường hợp Tòa án Tối cao cho rằng việc buộc tội và trừng phạt một người chỉ vì tình trạng nghiện ma túy là vi hiến. Vì nó chỉ đơn giản là trạng thái của một người nghiện ma túy. Mà trạng thái không phải là hành động. Chúng không phải là hành vi và do đó chúng nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của luật hình sự.
Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang Nguyên tắc có lỗi. Đây là nguyên tắc quy định những ai đáng bị quy trách nhiệm hình sự và trừng phạt đối với hành vi mà chúng ta mong muốn ngăn chặn.
Ví dụ về những hành vi như vậy là hành vi làm chết người, quan hệ tình dục không có sự đồng thuận, làm các tòa nhà cháy, chiếm đoạt tài sản khác, và những hành vi tương tự. Tất cả những hành vi xâm hại này đều có thể không cấu thành tội phạm, nếu không có lỗi (nếu một người đã hành động cẩn thận như người ta có thể mong đợi trong bối cảnh đó, nhưng vẫn gây ra tai nạn). Tai nạn xảy ra trong trạng thái không có lỗi. Khi vô ý xâm hại thì khó có thể bị buộc tội hay trừng trị.
Thật vậy, nếu người gây thiệt hại đã đủ cẩn thận, nạn nhân của vụ tai nạn thậm chí còn không được hưởng các khoản bồi thường thiệt hại. Bởi vì người gây thiệt hại đã không vi phạm tiêu chuẩn quan tâm hợp lý vốn là nền tảng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vậy nếu hành vi xâm hại không phải là điều kiện đủ để buộc tội và trừng phạt thì bản chất của nguyên tắc có lỗi là gì?
Tốt nhất chúng ta có thể bắt đầu khám phá câu hỏi này với một câu nói của cựu Thẩm phán Tòa án Tối cao Oliver Wendell Holmes. Thẩm phán Holmes đã viết rằng ngay cả một con chó cũng biết sự khác biệt giữa việc bị vấp ngã và bị đá. Cũng giống như luật pháp và đạo đức thông thường, việc đánh giá không chỉ dựa trên kết quả của hành động, mà quan trọng hơn là trạng thái tinh thần mà người đó. Một hành động gây hại có chủ đích, một cú đá bạo lực đáng trách hơn rất nhiều so với một cú đá vô tình gây đau đớn cho nạn nhân. Trạng thái tinh thần có thể là con đường dẫn đến sa ngã đạo đức.
Trạng thái tinh thần của một người thực hiện hành vi xâm hại cho thấy thái độ của người đó đối với quyền và lợi ích của đồng loại. Nếu ai đó cẩn thận hết mức có thể, thì người đó đã thể hiện sự tôn trọng hoàn toàn đối với quyền và lợi ích của người khác. Nếu người đó cố ý gây ra thiệt hại mà không có bất kỳ sự biện minh nào, thì chứng tỏ họ coi quyền và lợi ích của người bị hại không quan trọng. Sự thờ ơ như vậy là bản chất của lỗi đạo đức và sự đáng trách.
Trạng thái tinh thần thực hiện hành vi vi phạm hình sự được biết đến dưới thuật ngữ như là mens rea. Đây là một thuật ngữ Latinh cổ có nghĩa đen là tâm trí tội lỗi. Nhưng điều này không chính xác lắm. Nghĩa chính xác hơn phải là trạng thái tinh thần cùng với việc thể hiện ra bằng hành vi cụ thể. Không có tội phạm chỉ trong việc hình thành ý định. Trạng thái tinh thần đi kèm với các hành vi có khả năng gây xâm hại phân biệt mức độ đáng trách của người đó. Tội phạm là sự kết hợp của hành vi bị cấm cùng với trạng thái tinh thần có lỗi. Trong nửa thế kỷ qua, tổ chức cải cách luật có trụ sở tại Philadelphia, Viện Luật Hoa Kỳ, đã công bố một bộ luật hình sự mẫu nhằm xác định các trạng thái tâm thần đáng trách. Mặc dù nó chỉ là một luật mẫu, và không có tính ràng buộc. Nó vẫn có ảnh hưởng to lớn đến việc cải cách và phát triển của luật hình sự, kể từ khi nó được xuất bản vào đầu những năm 1960. Nó xác định bốn Trạng thái Tinh thần đáng trách: Có Chủ đích, Có Nhận Thức, Liều lĩnh và Sơ suất.
Có Chủ đích có nghĩa như nghĩa thông thường. Đó là làm điều gì đó có mục đích. Kết quả là mục tiêu có ý thức của bạn. Vì vậy, nếu tôi giết người có chủ đích, điều này có nghĩa là tôi muốn giết nạn nhân, tôi đã cố ý.
Có Nhận thức có nghĩa đơn giản là bạn nhận thức được một thực tế nào đó, hoặc thực tế chắc chắn rằng điều đó là đúng. Ví dụ, tôi muốn cho nổ một chiếc máy bay để phá hủy hàng hóa để có thể thu tiền bảo hiểm. Tất nhiên, phi hành đoàn chết trong vụ nổ. Mục đích thực sự của tôi có phải là giết họ? Không nhất thiết, tôi thậm chí có thể đã hy vọng một cách ngu ngốc rằng phép màu sẽ xảy ra, và họ sẽ không chết. Tuy nhiên, tôi biết thực tế chắc chắn rằng phi hành đoàn sẽ chết và tôi sẽ phải chịu tội nếu biết giết người.
Để xác định các thuật ngữ trạng thái tinh thần đáng trách khác: Liều lĩnh và Sơ suất. Chúng ta hãy quay lại ví dụ về người lái xe chạy quá tốc độ trong tài liệu trước. Người lái xe chắc chắn không có mục tiêu rằng ai đó phải chết và anh ta thực tế không chắc chắn rằng ai đó sẽ bị giết do hành động lái xe cực kỳ nguy hiểm của anh ta. Nhưng anh ta đã tạo ra một nguy cơ tử vong rất lớn. Hành vi này hoàn toàn không hợp lý trong hoàn cảnh đó. Liều lĩnh có nghĩa là người đó thực sự nhận thức được rủi ro mà anh ta đang tạo ra. Nó thực sự là trong suy nghĩ của anh ấy, nhưng anh ấy quyết định phớt lờ rủi ro. Do đó, người lái xe sẽ bị kết tội giết người liều lĩnh nếu anh ta thực sự nhận thức được nguy cơ sắp xảy ra, tử vong hoặc thương tích cơ thể nghiêm trọng, nhưng phớt lờ nó.
Sơ suất được định nghĩa là không nhận thức được rủi ro đã tạo ra. Nhưng trong những điều kiện mà một người tuân thủ pháp luật hợp lý lẽ ra sẽ phải nhận thức được. Ngay cả khi người lái xe bằng cách nào đó không nhận thức được nguy cơ tử vong hoặc tổn hại cơ thể nghiêm trọng mà anh ta đang tạo ra do việc lái xe nguy hiểm của mình. Anh ấy buộc phải nhận thức được.
Trong luật hình sự, mức độ lỗi nặng hơn phải chịu trách nhiệm hình sự lớn hơn. Như đã đề cập, trạng thái tinh thần đi kèm với hành vi xâm hại là biểu hiện của thái độ người đó đối với quyền và lợi ích của người khác. Ai càng thờ ơ thì càng đáng trách. Chắc chắn sẽ nguy hiểm hơn, nếu họ thờ ơ hơn. Giết người có chủ đích thường nguy hiểm hơn giết người có nhận thức về nguy cơ. Đến lượt nó, đáng trách hơn là giết người mà không nhận thức được rủi ro. Mức độ nghiêm trọng của các hình phạt phản ánh mức độ đáng trách khác nhau, ngay cả khi kết quả là như nhau.
Có một ngoại lệ trong luật hình sự Hoa Kỳ được gọi là tội phạm chịu trách nhiệm nghiêm ngặt. Nó cho phép buộc tội và trừng phạt đối với những hành vi nguy hiểm, ngay cả khi không có lỗi. Ví dụ, vận chuyển một số hàng hóa trong thương mại giữa các tiểu bang mà không có nhãn thích hợp có thể là một tội phạm.
Hãy tưởng tượng một doanh nghiệp vừa bán buôn và phân phối dược phẩm. Công ty đóng gói và dán nhãn thuốc trước khi vận chuyển. Giả sử một lô hàng không được dán nhãn đúng cách, mặc dù ban giám đốc công ty đã tổ chức đào tạo và kiểm soát chất lượng đặc biệt tốt cho quá trình dán nhãn. Tai nạn vô ý xảy ra, và doanh nghiệp và các nhân viên của nó là không có lỗi. Tùy thuộc vào từng trường hợp mà các nhân viên và bản thân doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm hình sự, bị buộc tội và trừng phạt. Những tội phạm như vậy chủ yếu phát sinh liên quan đến vấn đề sức khỏe và an toàn cộng đồng. Và thường chỉ bị hình phạt nhẹ. Tuy nhiên, có một số tội phạm loại này phải chịu hình phạt nặng. Những tội phạm như vậy có rất nhiều trong các bộ luật hình sự hiện thời. Nó đang gây tranh cãi gay gắt vì buộc tội và trừng phạt những người thực hiện hành vi đó ngay cả khi không có lỗi.
Với tầm quan trọng to lớn của nguyên tắc lỗi trong luật hình sự, câu hỏi đặt ra là liệu có công bằng khi sử dụng luật hình sự để điều chỉnh hành vi không có lỗi hay không. Đặc biệt trong bối cảnh các quy định khác như quy định về trách nhiệm dân sự có thể có hiệu quả tương đương. Sau khi xem xét nguyên tắc xâm hại và có lỗi dẫn đến cấu thành tội phạm, chúng ta sẽ chuyển sang cấu thành thực tế của tội phạm hình sự ở tài liệu sau.